Sáng kiến kinh nghiệm: Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy - Học toán lớp 3 - Lê Thị Dung

Sáng kiến kinh nghiệm: Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy - Học toán lớp 3 - Lê Thị Dung

 1- Lý do chọn đề tài:

2- Mục đích nghiên cứu:

 Như chúng ta đã biết, phương pháp dạy học thì nhiều nhưng lựa chọn phương pháp nào để phát huy tính tích cực của học sinh, đem lại hiệu quả học Toán cao mới là quan trọng. Vì phương pháp dạy học phát huy tính tích cực cho học sinh có những đặc điểm sau: Hoạt động học tập của học sinh chính là hoạt động nhận thức. Hoạt động này chỉ có hiệu quả khi học sinh học tập một cách tích cực, chủ động, tự giác với một động cơ nhận thức đúng đắn.

 Kết quả học tập của học sinh là thước đo kết quả hoạt động của giáo viên và học sinh. Trong quá trình dạy học, điểm tập trung là bản thân người học, chứ không phải là người dạy, tức là hoạt động dạy học cần dựa trên nhu cầu, hứng thú, thói quen và năng lực của người học ở các lứa tuổi khác nhau. Như vậy, mục đích ở đây là trẻ em phát triển trên nhiều mặt, chứ không chỉ nhằm lĩnh hội tri thức. Cần thật sự coi trọng quá trình học của học sinh, tức là coi trọng việc hình thành, phát triển những kỹ năng tự học và khả năng đáp ứng yêu cầu của dòng tri thức không ngừng gia tăng.

 

 

doc 18 trang huongadn91 12813
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy - Học toán lớp 3 - Lê Thị Dung", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT HOẰNG HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
DẠY HỌC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH 
TRONG DẠY - HỌC TOÁN LỚP 3
 Người thực hiện: Lê Thị Dung
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Hoằng Lương
 SKKN thuộc lĩnh vực môn: Toán
THANH HÓA NĂM 2016
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Bìa
1
Mục lục
2
I. Mở đầu
3
1. Lý do chọn đề tài
3
2. Mục đích nghiên cứu
3
3.Đối tượng nghiên cứu
4
4. Phương pháp nghiên cứu
4
II. Nội dung SKKN
4
1. Cơ sở lý luận của SKKN
4
2. Thực trạng vấn trước khi áp dụng SKKN
5
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
8
4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động GD, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
13
III. Kết luận, kiến nghị
14
1.Kết luận
14
2. Kiến nghị
16
Tài liệu tham khảo 
17
I- MỞ ĐẦU
 1- Lý do chọn đề tài:
2- Mục đích nghiên cứu:
	Như chúng ta đã biết, phương pháp dạy học thì nhiều nhưng lựa chọn phương pháp nào để phát huy tính tích cực của học sinh, đem lại hiệu quả học Toán cao mới là quan trọng. Vì phương pháp dạy học phát huy tính tích cực cho học sinh có những đặc điểm sau: Hoạt động học tập của học sinh chính là hoạt động nhận thức. Hoạt động này chỉ có hiệu quả khi học sinh học tập một cách tích cực, chủ động, tự giác với một động cơ nhận thức đúng đắn.
	Kết quả học tập của học sinh là thước đo kết quả hoạt động của giáo viên và học sinh. Trong quá trình dạy học, điểm tập trung là bản thân người học, chứ không phải là người dạy, tức là hoạt động dạy học cần dựa trên nhu cầu, hứng thú, thói quen và năng lực của người học ở các lứa tuổi khác nhau. Như vậy, mục đích ở đây là trẻ em phát triển trên nhiều mặt, chứ không chỉ nhằm lĩnh hội tri thức. Cần thật sự coi trọng quá trình học của học sinh, tức là coi trọng việc hình thành, phát triển những kỹ năng tự học và khả năng đáp ứng yêu cầu của dòng tri thức không ngừng gia tăng.
	Khi dạy học, hoạt động tư duy của học sinh được khơi dậy, phát triển và coi trọng.
	Từ những yêu cầu của xã hội về con người mới của thời đại Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước và tầm quan trọng của Toán học trong đời sống loài người nên tôi quyết định chọn đề tài “Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Toán lớp 3” để nghiên cứu, nhằm góp phần nhỏ vào sự nghiệp giáo dục nước nhà nói chung và nâng cao chất lượng dạy học Toán nói riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu:
 20 học sinh lớp 3A trường Tiểu học Hoằng Lương năm học 2015-2016
4. Phương pháp nghiên cứu
 Sáng kiến kinh nghiệm được nghiên cứu dựa trên cơ sở các phương pháp: 
Phương pháp quan sát
Phương pháp trắc nghiệm
Phương pháp luyện tập thực hành
Phương pháp hỏi đáp
 - Phương pháp thảo luận nhóm
 II- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận
 Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, nhiệm vụ của giáo dục đòi hỏi ngày càng cao, nếu chỉ trông chờ vào những gì có sẵn để yêu cầu học sinh bắt chước theo thì đó mới chỉ là việc thực hiện công tác giáo dục một cách đơn thuần. Dạy học Toán chúng ta cũng cần khai thác và coi trọng sự sáng tạo của học sinh. Đặc biệt trong dạy học phát huy tính tích cực của HS - phát triển năng lực tư duy cho học sinh. Để làm được điều đó trước hết giáo viên phải nắm vững được phương pháp dạy học mới là luôn coi trọng việc tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Giúp học sinh tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề của bài học, tự chiếm lĩnh nội dung học tập rồi thực hành, vận dụng các nội dung đó theo năng lực cá nhân của mình.
 Ngoài ra, người giáo viên phải chú ý đến các vấn đề sau:
- Nắm vững nội dung chương trình, bản chất của dạng toán, huy động được những hiểu biết, tri thức vốn có của học sinh để học sinh tự mình có thể chiếm lĩnh được kiến thức của bài một cách độc lập, sáng tạo, lấy học sinh làm nhân vật trung tâm của giờ dạy.
 - Giáo viên cần lựa chọn bài tập phù hợp với đối tượng học sinh của lớp.
 Đối với học sinh yếu cần có sự giúp đỡ riêng để đạt yêu cầu. Đối với học sinh khá, giỏi cần khai thác, phát triển các bài tập để các em có điều kiện bộc lộ hết năng lực của mình. 
 Tổ chức các tiết học sao cho mọi học sinh đều hoạt động một cách tích cực, chủ động trong mọi khâu, để đạt kết quả cao nhất.
 - Sử dụng nhiều hình thức linh hoạt, tạo không khí vui tươi, thoải mái, gây hứng thú cho học sinh trong các giờ học toán.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN: 
2.1 Thực trạng chung:
- Qua thời gian thực dạy và trao đổi với đồng nghiệp tôi thấy chất lượng dạy học về môn toán lớp 3 chưa cao.
- Việc dạy - học theo phương pháp mới ban đầu giáo viên và học sinh còn bỡ ngỡ. 
2.2. Thực trạng dạy học của giáo viên:
 Hiện nay ở các trường Tiểu học nói chung và ở Trường Tiểu học nơi tôi công tác nói riêng đều “Lấy học sinh làm nhân vật trung tâm” do quán triệt tinh thần đổi mới phương pháp. Giáo viên đã sắp xếp được nhiều thời gian cho học sinh luyện tập. Song bên cạnh những ưu điểm trên còn một số tồn tại sau: Tuy đã đổi mới phương pháp nhưng chưa đổi mới triệt để, chưa phát huy được hết ưu điểm của các phương pháp dạy học đã có để đem lại hiệu quả dạy - học Toán cao. Nếu những phương pháp đem lại hiệu quả cao nhưng cồng kềnh, bất tiện, mất nhiều thời gian chuẩn bị thì giáo viên thường bỏ qua hoặc sử dụng qua loa . . dẫn đến không phát huy được ưu điểm của phương pháp, không hình thành cho học sinh được thói quen chủ động, sáng tạo trong học tập. Giáo viên cũng thường ít sử dụng đồng thời nhiều phương pháp dạy học nhất là trong dạy học Toán nên các em ít hứng thú học tập dẫn đến không phát huy được năng lực tiếp thu Toán của mình, không tích cực học Toán.
	Giáo viên và học sinh đều phụ thuộc vào tài liệu có sẵn như Sách giáo viên, Sách giáo khoa và vở bài tập. Việc sử dụng đồng đều vở bài tập cho tất cả học sinh đều như nhau, không có bài tập dành riêng cho học sinh giỏi, khá. Những học sinh diện khá, giỏi thường không có hứng thú trong giờ học, vì các em giải quyết các bài tập đó một cách dễ dàng, còn đối với học sinh yếu thì lượng bài tập đó lại quá nhiều nên các em không thể làm hết các bài tập đó trên lớp tuy giáo viên đã thực hiện nghiêm ngăt nội dung giảm tải của Bộ GD&ĐT.
	Mặt khác, vở bài tập thường không có yêu cầu tóm tắt, không có phần để học sinh tự ghi tóm tắt nên kỹ năng tóm tắt của học sinh còn yếu hoặc học sinh tóm tắt sai dẫn đến bài làm sai.
	Khi sử dụng tài liệu hướng dẫn giáo viên, giáo viên thường rập khuôn, máy móc nên thường tiến hành hướng dẫn học sinh làm các bài tập theo các bước như nhau ở các dạng bài giống, gần giống nhau, ít khi thay đổi hình thức dạy học dẫn đến việc sử dụng các phương pháp dạy học đơn điệu nên học sinh hay nhàm chán trong việc tiếp thu kiến thức mới.
	Với cách dạy trên thì không thể phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo học tập của học sinh được. Chưa phát huy được tính tương tác giữa học sinh và học sinh, giữa giáo viên và học sinh .
	Chính vì thực trạng dạy học nêu trên khiến tôi phải suy nghĩ để đưa ra ý kiến điều chỉnh phương pháp dạy học Toán của bản thân nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Toán lớp 3 ở Trường Tiểu học Hoằng Lương.
Ngoài ra, cần phải khắc phục những sai lầm sau trong thực trạng dạy học. Đó là:
+ Giáo viên chưa cho học sinh phân tích kỹ đề bài và các mối quan hệ của các phép tính, các dữ liệu, các thuật ngữ Toán học để học sinh tự xây dựng quy trình tính toán và làm bài giải.
+ Giáo viên chưa tập cho học sinh có thói quen suy nghĩ liên hệ giữa bài cũ với bài mới, bài đang giải với bài đã giải. Bởi vậy làm toán và giải toán của các em chưa mang tính hệ thống, lôgic mà còn tách riêng từng bài cụ thể.
+ Giáo viên chưa gây được những tình huống để gây hứng thú cho học sinh học tập, hiệu quả dạy học chưa cao.
+ Qua những tiết soạn giảng trên lớp và dự giờ thực tế của đồng nghiệp, tôi nhận thấy hiện nay giáo viên chưa vận dụng hết ưu điểm của các phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Chưa tổ chức nhiều hình thức trò chơi để thực hiện yêu cầu bài tập nhằm phát huy tính tích cực, gây hứng thú học tập của tập thể học sinh. Dạng bài tập đưa ra chưa có phần dành riêng cho học sinh giỏi . . . giới thiệu kiến thức mới chưa sáng tạo.
2.3.Thực trạng học của học sinh:
 - Do địa bàn ở đây là vùng nông thôn nên kinh tế còn khó khăn. Đa số bố mẹ các em chỉ mải lo phát triển kinh tế nên hầu như phó mặc con em mình cho nhà trường. Số học sinh tự giác, tích cực học tập chưa nhiều. Mặc dù chương trình mới chú trọng tới việc “ cá thể hoá hoạt động học tập của học sinh” để bản thân mỗi học sinh sẽ nỗ lực suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, tự tìm ra cách giải quyết vấn đề. Song do lứa tuổi các em còn nhỏ nên sự tư duy, sáng tạo còn hạn chế dẫn đến trong hầu hết các tiết học toán, học sinh khá giỏi mới làm được hết các bài tập. Tuy làm xong nhưng nhiều em làm chưa hẳn đã đúng hết, nhất là các bài toán khó cần tư duy. Đối tượng còn lại các em làm được rất ít bài và thường hay sai.
- Mặt khác khi giải toán, học sinh còn thụ động, làm bài tập còn máy móc theo yêu cầu của giáo viên. Học sinh chỉ hoạt động làm và giải các bài tập cụ thể chứ không biết cách so sánh liên hệ với các bài toán khác.
+ Học sinh chưa có thói quen đọc kỹ bài tập, phân tích kỹ yêu cầu bài tập đã vội vàng làm bài dẫn đến sai, không hiểu bài.
 Để kiểm định lại tôi tiến hành cho học sinh lớp 3A kiểm tra lần 1 với đề bài như sau:
ĐỀ BÀI
Bài 1: Tính nhẩm
6 x 3 =	 24 : 6 = 	 7 x 2 =	 42 : 7 = 
7 x 4 =	 35 : 7 =	 6 x 7 =	 54 : 6 =
6 x 5 =	 49 : 7 =	 7 x 6 =	 70 : 7 = 
 Bài 2: Tính.
 12	 20	 82 2	 99 3
 7 6
Bài 3: Điền dấu ( >, <, = ) vào chỗ chấm cho thích hợp.
2m5cm . . . . . . 2m25cm;	 8m82cm . . . . . . 8m80cm
6m50cm . . . . . . 650cm;	3m5cm . . . . . . . 300cm
3m60cm . . . . . . . 3m 6cm;	 1m10cm . . . . . . . 110cm
Bài 4: Chị hái được 23 quả cam, mẹ hái được nhiều gấp 3 lần số cam của chị hái được. Hỏi mẹ hái được bao nhiêu quả cam ?
Bài 5: Vẽ đoạn thẳng AB dài 9 dm ?
	Sau khi tiến hành kiểm tra lần 1 tôi đã thu được kết quả như sau:
Lớp
Sĩ số
Điểm 9-10
 Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm 3-4
 3A
20
SL
TL
SL
 SL
SL
SL
SL
SL
3
 15
5
25
8
40
4
20
 Kết hợp với kết quả kiểm tra chất lượng đầu năm học như sau:
Lớp
Sĩ số
Điểm 9-10
Điểm 7- 8
Điểm 5- 6
 Điểm 3- 4
 3A
20
SL
 TL
SL
 TL
 SL
 TL
SL
 TL
2
 10
4
 20
 9
 45
5
 25
 Nhìn vào kết quả thi lần 1và kết quả kiểm tra chất lượng đầu năm học cho thấy tỷ lệ học sinh đạt điểm 7-10 còn thấp so với mặt bằng chung. Bản thân tôi đã nhận thấy chất lượng dạy học Toán hiện nay chưa cao, tỷ lệ học sinh đạt điểm 7-10 môn Toán vẫn còn thấp, tỷ lệ học sinh đạt điểm 5- 6 và học sinh đạt điểm 3 - 4 vẫn còn nhiều. Nguyên nhân là do giáo viên chưa phát huy được tính tích cực ở học sinh, ở từng đối tượng học sinh trong giờ học Toán. 
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
3.1. Các giải pháp
*Một là: Tìm hiểu phương pháp dạy học Toán tiểu học nói chung và phương pháp dạy học Toán lớp 3 nói riêng.
*Hai là: Tìm hiểu nội dung, phương pháp các bài Toán lớp 3 mà giáo viên đang sử dụng dạy học hiện nay.
*Ba là: Đưa các phương pháp dạy học phù hợp vào thực nghiệm.
*Bốn là: Đề xuất một số ý kiến để góp phần khắc phục nhược điểm về việc lựa chọn phương pháp dạy học Toán hiện nay để phát huy tính tích cực của học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy học góp phần Đào tạo con người mới cho thời đại.
3.2. Các biện pháp tổ chức thực hiện
*Biện pháp 1: Tìm hiểu phương pháp dạy học Toán tiểu học nói chung và phương pháp dạy học Toán lớp 3 nói riêng.
 Phương pháp dạy học toán lớp 3 là dạy học dựa vào các hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Giáo viên tổ chức hướng dẫn cho học sinh hoạt động với sự trợ giúp của dụng cụ học, đồ dùng học của học sinh, từng nhóm học tập rồi thực hành, vận dụng các nội dung đó theo năng lực của từng học sinh ngoài một số phương pháp cụ thể thường được sử dụng trong dạy học toán 3 như: phương pháp trực quan, phương pháp dạy học bài mới, phương pháp thực hành luyện tập, phương pháp gợi mở, vấn đáp, phương pháp giảng giải, phương pháp minh hoạ, 
 Như vậy việc tìm hiểu phương pháp dạy học toán lớp 3 là nhằm giúp học sinh bước đầu có một số kiến thức và kĩ năng cơ bản đơn giản, thiết thực, có hệ thống. Rèn luyện khả năng diễn đạt, trình bày giải quyết các tình huống có vấn đề. Phát huy năng lực tư duy và phát huy tính tích cực cho học sinh theo đặc trưng của môn học.
*Biện pháp 2: Tìm hiểu nội dung, phương pháp các bài Toán lớp 3 mà giáo viên đang sử dụng dạy học hiện nay.
 Nội dung chương trình toán 3:
+ Về số học và đại số: Phép nhân và phép chia, phép cộng, phép trừ các số trong phạm vi 1000; 100.000 .
+Đại lượng và đo đại lượng: - Bổ sung và lập các đơn vị đo độ dài từ mi li mét đến ki lô mét. Nêu mối quan hệ giữa 2 đơn vị tiếp liền nhau, giữa mét và ki lô mét và xăng ti mét, mi li mét. Thực hành đo và ước lượng độ dài.
- Giới thiệu đơn vị đo diện tích: Xăng - ti – mét – vuông. Gam( đọc , viết các số theo đơn vị gam), giới thiệu 1 kg = 1000g
- Ngày , tháng , năm. Thực hành xem lịch. Phút, giờ .
+ Về yếu tố hình học: Giới thiệu về góc vuông, góc không vuông, giới thiệu Ê - ke, góc, đỉnh, cạnh, hình vuông đã học. Tính chu vi, diện tích hình chữ nhật, hình vuông.
+ Yếu tố thống kê: Giới thiệu bảng số liệu đơn giản. Tập sắp xếp số liệu của bảng theo mục đích yêu cầu cho trước.
+ Về giải toán: Giải bài toán có đến 2 bước tính với mối quan hệ trực tiếp đơn giản. Bài toán quy về đơn vị và các bài toán có nội dung hình học.
*Biện pháp 3: phương pháp dạy học Toán lớp 3
a) Phương pháp dạy học bài mới.
 * Giúp học sinh tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề của bài học.
 + Giáo viên nêu vấn đề rồi giúp học sinh sử dụng kinh nghiệm của bản thân để phát hiện mối quan hệ của vấn đề đó với các kiến thức đã có. Từ đó tự tìm cách giải quyết vấn đề.
 Ví dụ ( Bài toán ở tiết 23, SGK Toán 3).
 Một quyển truyện có 84 trang Dương đã đọc được 1/4 số trang đó. Hỏi Dương đã đọc được bao nhiêu trang?
- Cho vài em nhắc lại hoặc nêu tóm tắt bài toán bằng lời. Đây là quá trình giúp học sinh phát hiện ra vấn đề của bài toán có liên quan đến những kiến thức mà các em đã biết, chẳng hạn ¼ liên quan đến chia hết cái toàn thể ( 84) thành 4 phần bằng nhau ( 84 : 4) rồi lấy một trong các phần đó ( 84 : 4 = 21 ) như thế, học sinh tóm tắt bằng sơ đồ hoặc hình vẽ như sau: 
 84 trang 84 trang
? trang
 	.	.	.
 ? trang
Từ đó học sinh đó đã phát hiện ra vấn đề và đã có cách giải quyết.
+ Giúp học sinh tập khái quát hoá theo mức độ phù hợp cách giải quyết vấn đề để tự chiếm lĩnh kiến thức mới.
 - Giáo viên yêu cầu học sinh nêu “qui tắc khái quát” để vừa chiếm lĩnh kiến thức mới vừa tập tự khái quát hoá.
b) Phương pháp thực hành luyện tập.
 Đây là phương pháp thường được dùng trong các tiết dạy luyện tập, luyện tập chung, ôn tập củng cố các kiến thức học sinh mới chiếm lĩnh được. HS tự làm bài, tự củng cố và chốt kiến thức sau mỗi bài tập theo hướng dẫn của GV. Hình thành các kĩ năng thực hành và từng bước phát huy tính tích cực trong học toán của học sinh.
 Ví dụ: Bài toán sau:
 Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu , thùng thứ 2 đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6 lít dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?
- Giáo viên yêu cầu học sinh tóm tắt đề toán bằng lời hoặc bằng sơ đồ.
 Tóm tắt bằng sơ đồ.
 Thùng thứ nhất 18 lít
 6 lít ? lít dầu
Thùng thứ hai 
 Tóm tắt bằng lời. 
Thùng thứ nhất đựng: 18 lít dầu.
Thùng thứ hai hơn thùng thứ nhất: 6 lít dầu.
Cả hai thùng đựng: ? lít dầu. 
- Học sinh nhận ra được bài toán giải bằng 2 phép tính.
- Kiến thức để giải bài toán “ Muốn biết cả 2 thùng đựng được bao nhiêu lít dầu” việc đầu tiên ta phải tìm thùng thứ 2 đựng được bao nhiêu lít dầu.Sau đó tìm số lít dầu của cả 2 thùng.
 Ngoài việc áp dụng các phương pháp dạy học nói trên, tôi còn tăng cường đưa các phương pháp dạy học tương tác vào như dạy học theo nhóm và phương pháp trò chơi (phương pháp thực hiện yêu cầu bài tập thông qua trò chơi toán học) nhằm gây hứng thú học toán cho học sinh từ đó các em có điều kiện phát huy khả năng toán học của mình một cách thoải mái và phát huy tính tích cực của học sinh .
c) Phương pháp dạy học theo nhóm:
* Phương pháp này tạo sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh.
- Khi cần thiết có thể cho học sinh trao đổi ý kiến trong nhóm nhỏ về cách giải của bạn, tự rút kinh nghiệm để hoàn chỉnh cách giải quyết của học sinh.
 Ví dụ: Khi dạy bài tập sau:
 Có 35 mét vải. May mỗi bộ quần áo hết 4 mét vải. Hỏi có thể may nhiều nhất là bao nhiêu bộ quần áo và còn thừa bao nhiêu mét vải?
 - Giáo viên cho học sinh làm bài. Khi chữa bài nên cho học sinh thảo luận cách trình bày bài giải để trả lời đúng yêu cầu của câu hỏi.
 - Khi giải xong giáo viên khuyến khích học sinh, bình luận về cách giải của bạn. Chẳng hạn: “ Có bao nhiêu bạn có cách giải giống bạn A” ; “ Có bao nhiêu bạn có cách giải khác bạn A”.
- Giáo viên cùng học sinh nhận xét, bổ sung hoàn chỉnh cách giải của học sinh trên bảng lớp.
- Trong một số trường hợp có thể cho các em đổi chéo trong nhóm bàn 
( nhóm đôi) để tự kiểm tra bài của bạn và cho điểm theo gợi ý của giáo viên.
- Khuyến khích học sinh tự nêu những hạn chế trong bài làm của bạn.
Ví dụ: Dạng bài tập viết tiếp số thích hợp vào chỗ chấm.
Số liền trước
Số đã cho
Số liền sau
 .
 .
 .
1995
2009
1999
2005
 .
 .
 .
 - Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm ghi kết quả vào tờ giấy to có sẵn đề bài.
- Hết thời gian yêu cầu các nhóm dán tờ giấy ghi bài làm lên bảng lớp.
- Các nhóm nhận xét chéo nhau.
- Giáo viên nhận xét, kết luận – tuyên dương.
d) Phương pháp trò chơi thông qua trò chơi toán học:
 Mục đích củng cố về một phần kiến thức đã học, tạo hứng thú rèn luyện và phát huy năng lực tư duy và tính tích cực cho học sinh.
Ví dụ 1: Trò chơi “ Tìm ngôi sao sáng”. Trò chơi được sử dụng trong tiết 114: Luyện tập (hay cho bài tập 4- trang 34- SGKToán 3 ).
 * Mục đích chơi:
 - Củng cố về nhận biết giá trị các số La Mã 
 -Tạo hứng thú học tập, rèn luyện và phát triển năng lực tư duy
* Chuẩn bị: Học sinh chuẩn bị mỗi em 5 que tính
* Thời gian chơi: Từ 3-5 phút
* Cách chơi: Chơi thi đua giữa các cá nhân 
Các em đặt que tính lên bàn, khi giáo viên nêu lệnh học sinh thi nhau xếp xem ai làm nhanh nhất, đúng nhất
 Giáo viên nêu lệnh: Hãy dùng 5 que tính để xếp thành số 14
 Học sinh thi xếp 
Giáo viên nêu tiếp : Nhấc một que diêm để xếp lại để được số 16
Học sinh xếp : 
Tiến hành tương tự: Xếp 5 que diêm thành số 19 .Nhấc 1 que diêm xếp lại để được số 21. 
Sau mỗi lần giáo viên yêu cầu thì có tín hiệu ( giơ tay hoặc vỗ tay), giáo viên quan sát, nhận xét và tổng hợp kết quả. Nếu em nào làm nhanh, đúng và đẹp nhất trong các lần xếp số thì được phong là “ Ngôi sao sáng” được thưởng bằng tràng pháo tay.
Ví dụ 2: trò chơi “Tìm đội vô địch”. Trò chơi có thể sử dụng trong tiết “Ôn tập giải toán” Tiết 163, 164 trang 90 – 91 Sách giáo khoa toán 3.
- Giáo viên chia lớp thành 2 đội, mỗi đội cử ra 3 đến 5 bạn đại diện chơi. Các bạn còn lại làm cổ động viên. Cô viết sẵn tóm tắt lên giấy kẻ ô li: Hãy giải bài toán theo tóm tắt (gồm đủ 3 đến 5 dạng). Phô tô làm 2 bản cho 2 đội, đặt úp xuống bàn theo hàng ngang( để học sinh không được nhìn thấy bài trước khi tính giờ). Chẳng hạn:
Đề 1: 4385m
 Đội 1: ? m
 Đội 2: 82m 
 5595 kg gạo
Đề 2: Xe thứ nhất : 
 Xe thứ hai: 1857 kg ? kg
 Đề 3: 54 cái cốc đựng trong : 9 hộp
 4572 cái cốc : ? hộp
Cách chơi: Khi giáo viên hô “ 5 phút bắt đầu” thì tất cả 5 bạn học sinh của 2 đội lật tờ giấy lên, đọc kĩ và giải quyết nhanh chóng yêu cầu đặt ra. Đội nào xong nộp bài cho cô về chỗ ngồi, cô đánh dấu những bài nộp trước thời gian quy định. Hết giờ, bài của đội nào viết tiếp là phạm quy không tính điểm. Mỗi bài giải đúng ghi 10 điểm. Tổng điểm đội nào ghi nhiều hơn là “ vô địch”. Trong trường hợp 2 đội bằng điểm nhau thì đội nào nộp bài trước sẽ thắng.
 Qua đó tôi nhận thấy rằng: sử dụng trò chơi học tập không chỉ giúp học sinh nắm được, củng cố được nội dung kiến thức toán một cách nhẹ nhàng mà còn giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, phát triển trí tưởng tượng, khả năng diễn đạt mạch lạc và nhất là tạo hứng thú , tạo niềm vui , lòng say mê , tính tích cực trong học tập.
*Biện pháp 3: Lựa chọn và đề cao các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh.
 Trong quá trình dạy học, tôi đã đề cao các phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh như phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp dạy học nhóm (phương pháp dạy học tương tác), phương pháp trò chơi (để gây hứng thú học tập cho học sinh), phương pháp thực hành (để khắc sâu kiến thức) . . . và một số phương pháp khác.
 Với việc lựa chọn các phương pháp dạy học như đã áp dụng ở trên, cụ thể là ở phần cung cấp kiến thức mới tôi đã sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề, tôi dẫn dắt học sinh liên hệ từ kiến thức đã học sang việc hình thành kiến thức ở bài mới, hướng dẫn học sinh cách tính bài mới dựa trên kiến thức đã học ( học sinh tự suy luận từ cách thực hiện phép chia số có 3 chữ số sang để thực hiện phép chia số có 4 chữ số cho số có một chữ số). Từ phương pháp dạy học trên yêu cầu học sinh phải tích cực tư duy, tìm tòi cách tính dẫn đến phát huy được tính chủ động, sáng tạo để lĩnh hội kiến thức. Ngoài ra, với phương pháp dạy học trên, học sinh cũng được luyện tập nhiều từ đó học sinh được khắc sâu kiến thức.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
- Sau thời gian áp dụng phương pháp mới nhằm phát huy tính tích cực học toán vào thực nghiệm ở lớp 3A. Tôi đã tiến hành kiểm tra lần 2 với đề bài sau:
Đề bài
Bài 1: Tính nhẩm.
6 x 5 =	 18 : 3 = 72 : 9 = 	56 : 7 = 
3 x 9 =	 64 : 8 =	9 x 5 = 	28 : 7 =
8 x 4 =	 42 x 7 = 	4 x 4 =	 7 x 9 =
Bài 2: Đặt tính rồi tính:
154 x 3 	 2306 x 2 	 856 : 4 	 1735 : 5 
Bài 3: Tính giá trị của biểu thức:
a, 14 x 3 : 7	 b, 342 + 186 : 6
Bài 4: Một cửa hàng có 496 kg đường, đã bán được 1/4 số đường đó. Hỏi cửa hàng còn lại bao nhiêu kg đường ?
Bài 5: Khoanh tròn vào trước câu trả lời đúng.
Chu vi hình chữ nhật có chiều dài 15 cm, chiều rộng 10 cm là:
 A. 25 cm	 B. 35cm	C. 40 cm	 D. 50 cm
Kết quả thu được như sau:
Lớp
Sĩ số
Điểm 9-10
 Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm 3-4
3A
20
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
8
40
5
25
7
35
0
0
Cùng với kết quả đó là kết quả kiểm tra định kỳ môn toán cuối học kỳ II:
Lớp
Sĩ số
Điểm 9-10
 Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm 3-4
 3A
20
SL
 TL
SL
 TL
SL
 TL
 SL
 TL
9
 45
6
 30
 5
 25
0
 0
- Bản thân tôi đã nhận thấy chất lượng dạy học Toán hiện nay chưa cao, tỷ lệ học sinh `đạt điểm 7-10 còn thấp, tỷ lệ học sinh đạt điểm 5- 6 còn thấp và học sinh đạt điểm 3- 4 vẫn còn nhiều. Nguyên nhân là do giáo viên chưa phát huy được tính tích cực ở học sinh, ở từng đối tượng học sinh trong giờ học Toán. Để công việc dạy học đạt kết quả tốt hơn, tôi mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp dạy học toán. Đưa phương pháp dạy học “Phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học toán” ứng dụng vào các tiết dạy trên lớp.
Nắm được những hạn chế trong phương pháp dạy học của giáo viên tôi đã mạnh dạn suy nghĩ và tìm biện pháp khắc phục để đem lại hiệu quả cao trong những tiết dạy - học Toán.
 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
1. Kết luận
Nhìn vào kết quả dạy học thu được sau một thời gian áp dụng thực nghiệm “Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh” đã phần nào động viên tôi tiếp tục nghiên cứu áp dụng các phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng học toán. Bằng việc áp dụng các phương pháp dạy - học phát huy tính tích cực của học sinh như đã nêu ở trên, tôi thấy các em học bài rất nhiệt tình, sôi nổi, khi học các em kể cả em học yếu cũng được đồng thời tham gia. Vì vậy, các em phát huy được ý kiến của mình dù chỉ là nhỏ dẫn đến các em hứng thú học tập. Khi thực hiện yêu cầu bài tập thông qua các trò chơi thì các em cũng tích cực tham gia, phá tan được bầu không khí đơn điệu, nhàm chán trong giờ học, các em học bài hứng thú hơn, hăng say hơn, dẫn đến kết quả học tập tốt hơn.
	Có được kết quả đáng phấn khởi trên là do quá trình nghiên cứu đã đưa biện pháp dạy học “Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy - học”, đã phát huy được các ưu điểm của các phương pháp dạy học, mỗi bài toán và mỗi bài tập thực hành đều có phương pháp dạy học riêng phù hợp nên đã giúp các em học sinh tích cực học tập, hứng thú với môn học. Kết quả là chất lượng học toán đã tốt hơn nhiều.
- Phương pháp này giúp cho các em phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và chính xác trong học toán.
- Giúp cho học sinh nắm vững nội dung chương trình, bản chất của dạng toán, huy động được những hiểu biết, tri thức vốn có của mỗi học sinh. Tự mình có thể chiếm lĩnh được kiến thức của bài một cách độc lập, sáng tạo, lấy học sinh làm nhân vật trung tâm của giờ dạy.
- Giúp cho các em có khả năng làm tính và giải toán tốt hơn. Đặc biệt là năng lực hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
 Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn vấn đề “Phát huy tính tích cực trong dạy học toán của học sinh lớp 3” tôi rút ra cho mình một số kinh nghiệm như sau:
 1. Nắm vững được đặc điểm tâm lí lứa tuổi của học sinh Tiểu học: Tư duy cụ thể chiếm ưu thế, các em rất tò mò, ham hiểu biết, từ đó lựa chọn những nội dung, phương pháp phù hợp, khơi dậy tính tò mò ham hiểu biết của học sinh cũng như tạo hứng thú cho học sinh học tập.
 2. Nắm vững nội dung chương trình, bản chất của dạng toán , huy động 
được những hiểu biết, tri thức vốn có của học sinh để học sinh tự mình có thể chiếm lĩnh được kiến thức của bài một cách độc, sáng tạo. 
 3. Giáo viên cần lựa chọn bài tập phù hợp với đối tượng học sinh của lớp.
 4. Sử dụng nhiều hình thức linh hoạt, tạo không khí vui tươi, thoải mái, gây hứng thú cho học sinh trong các giờ học toán.
 5. Để việc dạy học môn Toán đảm bảo tính khoa học, tính chính xác, tính sư phạm và phát huy được tính chủ động, sáng tạo, tư duy lô gíc của học sinh, giáo viên không ngừng nâng cao trình độ về toán học và phương pháp dạy học qua nghiên cứu, học tập các tài liệu có liên quan đến chương trình, nội dung giảng dạy.
 6. Giáo viên phải chú trọng từng khâu từng phần trong mạch kiến thức và phải thấy được những khó khăn của học sinh khi làm tính hay giải toán để giúp các em giải quyết vấn đề một cách thấu đáo. Bao giờ cũng vậy, trước khi giúp học sinh tìm tòi phát hiện một vấn đề mới, cần củng cố và khắc sâu lại những kiến thức có liên quan, tạo đà cho việc chiếm lĩnh kiến thức mới.
 7. Đối với học sinh yếu cần có sự giúp đỡ riêng để đạt yêu cầu. Đối với học sinh khá, giỏi cần khai thác, phát triển các bài tập để các em có điều kiện bộc lộ hết năng lực của mình. 
 8. Tổ chức các tiết học sao cho mọi học sinh đều hoạt động một cách tích cực, chủ động trong mọi khâu, để đạt kết quả cao nhất. 
 2. Kiến nghị
Qua kết quả nghiên cứu trên tôi có một số kiến kiến nghị như sau:
- Mong các cấp lãnh đạo quan tâm hơn nữa đến việc bồi dưỡng tổ chức các chuyên đề, các hội thảo về phương pháp, biện pháp dạy học để nâng cao hiệu quả trong các giờ học toán nhất là vấn đề bồi dưỡng năng lực tư duy cho học sinh trong giải toán.
- Quan tâm, đổi mới vấn đề soạn bài của giáo viên để giáo viên có thời gian đọc, nghiên cứu thêm các tài liệu tham khảo.
- Tài liệu dạy - học: Các bài tập dùng cho học sinh cần có phần bài tập dành riêng cho học sinh khá giỏi để các em được phát huy năng lực của mình.
 Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Tiểu học Hoằng Lương và tập thể giáo viên, học sinh đã giúp tôi hoàn thành SKKN này. Tôi rất mong nhận được ý kiến góp ý xây dựng.
XÁC NHẬN CỦA 
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
 Thanh Hóa, ngày 7 tháng 5 năm 2016.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. 
 Người viết sáng kiến 
 Lê Thị Dung
Tài liệu tham khảo:
- Sách giáo khoa môn Toán lớp 3 (NXBGD)
- Sách giáo viên môn Toán lớp 3 (NXBGD)
- Vở bài tập Toán lớp 3
- Tạp chí giáo dục Tiểu học (NXBGD)
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_hoc_phat_huy_tinh_tich_cuc_cua_hoc.doc