Đề tài Dạy tốt các dạng bài Toán có lời văn ở Lớp 2

Đề tài Dạy tốt các dạng bài Toán có lời văn ở Lớp 2

Cùng với các môn khoa học khác ở bậc tiểu học. Môn toán có vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kỹ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh. Nó góp phần rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kỹ năng môn toán ở tiểu học còn nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế.

doc 6 trang Đồng Thiên 04/06/2024 1910
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Dạy tốt các dạng bài Toán có lời văn ở Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ
DẠY TỐT CÁC DẠNG BÀI TOÁN CÓ LỜI VĂN LỚP 2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với các môn khoa học khác ở bậc tiểu học. Môn toán có vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực, nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kỹ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh. Nó góp phần rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kỹ năng môn toán ở tiểu học còn nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, đặc biệt nhiều năm đứng lớp ở khối 2 chúng tôi thấy: Toán có lời văn có vị trí rất quan trọng trong chương trình Toán ở trường tiểu học. Các em làm quen với toán có lời văn ngay từ lớp học, đặc biệt ở lớp 2 yêu cầu các em viết lời giải cho phép tính Có thể nói, đây là một khó khăn đối với học sinh khi học toán có lời văn. Đọc một đề toán đang còn khó đối với các em vậy mà phải: Tìm hiểu đề toán, tóm tắt đề, đặt câu lời giải, phép tính, đáp số Vì vậy đây cũng là một vấn đề mà chúng tôi luôn luôn trao đổi, thảo luận trong những buổi sinh hoạt chuyên môn, tích lũy nghiệp vụ do nhà trường tổ chức. Làm thế nào để học sinh hiểu được đề toán, viết được tóm tắt, nêu được câu lời giải hay, phép tính đúng. Điều đó đòi hỏi rất nhiều công sức và nổ lực không biết mệt mỏi của người giáo viên đứng lớp. Qua kinh nghiệm của bản thân, tổ và trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp, chúng tôi đã rút ra được: “Một số kinh nghiệm giải toán có lời văn” để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường nói chung và đối với học sinh lớp 2 nói riêng.
II GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
	Các bài tón đơn về cộng, trừ, trong đó có bài toán về “nhiều hơn”, “ít hơn”, một số đơn vị và các bài toán về nhân, chia (trong phạm vi bảng nhân, chia từ 3 → 5) và bước đầu làm quen giải bài toán có nội dung hình học (tính độ dài, chu vi các hình), các bài toán liên quan đến các phép tính với các đơn vị đo đã học (cm, m, km, kg, lít).
Để giúp học sinh có kỹ năng thành thạo trong việc giải toán thì chúng tôi không chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ toán mà một phần yếu tố không kém phần quan trọng đó là kỹ năng nói trong giờ Tiếng việt.
Như chúng ta đã biết, học sinh lớp 2 còn thụ động, rụt rè trong giao tiếp. Chính vì vậy, để các em mạnh dạng tự tin khi phát biểu rả lời,người giáo viên cần phải: luôn luôn gần gữi, khuyến khích cho các em giao tiếp, tổ chức các trò chơi, trao đổi học tập, luyện nói nhiều trong các giờ Tiếng việt và trong các gờ học khác để cócó thể nhận xét và trả lời tự nhiên, nhanh nhẹn mà không rụt rè, tự tin. Bên cạnh đó, người giáo viên cần phải chú ý đến kỹ năng đọc cho học sinh: Đọc nhanh, đúng, tốc độ, ngắt nghỉ đúng chổ giúp học sinh có kỹ năng nghe, hiểu được yêu cầu mà các bài tập đưa ra.
Tóm lại: Để giúp học sinh giải toán có lời văn thành thạo chúng tôi luôn luôn chú ý rèn luyện kỹ năng, nói, đọc, viết cho các học sinh trong các giờ học Tiếng việt, bởi vì học sinh đọc thông, viết thạo là yếu tố “đòn bẩy” giúp học sinh hiểu rỏ đề và tìm cách giải toán một cách thành thạo ở bất kì. Vì vậy ở các hình thức nào, dạng nào của chương trình toán 2 chúng tôi cũng tập trung rèn luyện cho học sinh các kỹ năng như: Tìm hiểu nội dung bài toán, tìm cách giải bài toán và kỹ năng trình bày bài giải một cách hợp lý được tiến hành cụ thể như sau:
Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán
Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ khóa quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn từ thông thường như: “ít hơn”, “nhiều hơn”, “tất cả” 
Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó trong bài toán đang làm, sau đó giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đặt câu hỏi đàm thoại: “Bài toán cho gì ? Bài toán hỏi gì ?” và dựa váo tóm tắt để nêu đề toán 
Đối với những học sinh đọc hiểu còn chậm chúng tôi dùng phương pháp giảng giải kèm theo các đồ vật, tranh minh họa để các em tìm hiểu, nhận xét nội dung, yêu cầu của đề toán. Qua đó học sinh hiểu được yêu cầu của bài toán và dựa vào câu hỏi của bài, các em đọc câu lời giải,. phép tính, đáp số của bài toán rồi cho các em tự trình bày và ghi bài giải vào vở bài tập.
Bước 2: Tìm cách giải bài toán
a. Chọn phép tính giải thích hợp:
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái đã tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “phép cộng” nếu bài toán yêu cầu “nhiều hơn” hoặc “gộp”, “tất cả”. chọn “tính trừ” nếu “bớt” hoặc “tìm phần còn lại” hay là “ít hơn” 
Ví dụ
Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam ?
Để giải bài toán này, học sinh cần phải tìm mối quan liên hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông qua các câu hỏi gợi ý sau:
+ Bài toán cho biết gì ? (vườn nhà Mai có 17 cây cam)
+ Bài toán còn cho biết gì nữa ? (vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây)
+ Bài toán hỏi gì ? (vườn nhà Hoa có bao nhiêu cây cam)
+ Muốn biết vườn nhà Hoa có bao nhieu cây cam em làm tính gì ? (tính trừ)
+ Lấy mấy trừ đi mấy ? (17 – 7)
+ 17 – 7 bằng bao nhiêu ? (17 – 7 = 10)
b. Đặt câu lời giải thích hợp.
Thực tế giảng dạy cho thấy việc đặt câu lời giải phù hợp là bước vô cùng quan trọng và khó khăn đối với học sinh lớp 2. Chính vì vậy việc hướng dẫn học sinh lựa chọn và đặt câu lời giải hay cũng là một khó khăn đối với người dạy. Tùy từng đối tượng học sinh mà tôi lựa chọn hướng dẫn các cách sau:
- Cách 1: (Được áp dụng nhiều nhất và dể hiểu nhất): Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu “hỏi” và từ cuối “mấy” rồi thêm từ “là” để có câu lời giải “vườn nhà Hoa có số mấy cây cam là”: rồi chèn phép tính vào để có các cả bước giải (gồm câu hỏi, câu lời giải và phép tính):
Vườn nhà Hoa có số cây cam là:
17 – 7 = 10
Đấp số: 10 (cây cam).
Tóm lại: Tùy đối tượng, tùy trình độ học sinh mà hướng dẫn các em cách lựa chọn, đặt lời giải cho phù hợp.
Trong một bài toán, học sinh có thể có nhiều cách đặt khác nhau như 2 cách trên. Song trong khi giảng dạy, ở mỗi một dạng bài cụ thể chúng tôi đưa cho các em tự suy nghĩ, thảo luận theo bàn, nhóm để tìm ra các câu lời giải đúng và hay nhất cho phù hợp với câu hỏi của bài toán đó.
Tuy nhiên cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách hay nhất (cách 1) còn các cách kia giáo viên đều công nhận là đúng và phù hợp nhưng cần lựa chọn để có câu lời giải là hay nhất để ghi vào bài giải.
Bước 3: Trình bày bài giải
Như chúng ta đã biết, các dạng toán có lời văn học sinh phải tự viết câu lời giải, phép tính, đáp số, thậm chí cả tóm tắt nữa.
Chính vì vậy, việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa học, đẹp mắt cũng là yêu cầu lớn trong quá trình dạy học. Muốn thực hiện yêu cầu này trước tiên người dạy cần tuân thủ cách trình bày bài giải theo hướng dẫn, quy định.
- Đầu tiên là tên bài (Viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi tóm tắt, sau phần tóm tắt là trình bày bài giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở (có gạch chân), câu lời giải cách lề khoảng 2- > 3 ô vuông, chữ ở đầu tiên viết hoa, ở cuối câu có dấu hai chấm (:), phép tính viết lùi vào so với lời giải khoảng 2- > 3 chữ, cuối phép tính là đơn vị tính được viết trong dấu ngoặc đơn. Phần đáp số ghi sang phần vở bên phải (có gạch chân) và dấu hai chấm rồi mới viết kết quả và đơn vị tính (không phải viết dấu ngoặc đơn nữa).
Song song với việc hướng dẫn các bước thực hiện, chúng tôi thường xuyên trình bày bài mẫu trên bảng và yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét về cách trình bày để từ đó học sinh làm quen với nhiều cách trình bày. Bên cạnh đó chúng tôi còn thường xuyên chấm bài và sửa lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp; tuyên dương trước lớp những học sinh làm đúng, trình bày đẹp, cho các em đó lên bảng trình bày lại bài của mình để các bạn cùng học tập 
Bên cạnh việc hướng dẫn trình bày như trên, chúng tôi luôn luôn nhắc nhở, rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết chữ - viết số đúng mẫu – đẹp. Việc kết hợp với chữ viết và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong vấn đề giải toán có lời văn lớp của các em.
Qua kết quả môn toán từ năm học trước và năm học này cụ thể như sau:
- Năm học: 2010-2011
* Tổng số học sinh khối 2: 77 học sinh
+ Giỏi: 15 học sinh. Tỷ lệ: 19,48%
+ Khá: 17 học sinh. Tỷ lệ: 22,08%
+ TB: 45 học sinh. Tỷ lệ: 58,44%
- Năm học: 2011-2012 tính đến CHKI:
* Tổng số học sinh khối 2: 81 học sinh
+ Giỏi: 22. Tỷ lệ: 27,16%
+ Khá: 19. Tỷ lệ: 23,46%
+ TB: 36. Tỷ lệ: 44,44%
+ Yếu: 4. Tỷ lệ: 4,94%
III. KẾT LUẬN
Nhờ áp dụng, kết hợp các biện pháp trong giảng dạy mà chúng tôi thu được những kết quả ban đầu trong việc dạy học “Giải toán có lời văn” nói riêng và trong chất lượng môn toán nói chung bởi vì “Giải toán có lời văn” là dạng toán khó của chương trình SGK toán 2. Học sinh phải đặt lời giải trước phép tính và kết quả của bài toán. Nếu các em nắm chắt được cách giải toán lớp 2 chắt chắn sau này các em học lên các lớp trên sẽ có điều kiện tốt hơn ở dạng toán khó hơn.
Có được kết quả như vậy một phần nhờ học tập tích cực, tự giác của học sinh, sự quan tâm nhắc nhở của phụ huynh học sinh, bên cạnh đó là các biện pháp giáo dục đúng lúc, kịp thời của giáo viên.
Qua kết quả đã đạt được trên, chúng tôi thấy số học sinh yếu đã không còn, số học sinh khá, giỏi tăng. So với năm học trước thì kết quả trên thật là đáng mừng. Điều đó cho thấy những cố gắng đổi mới phương pháp dạy học của chúng tôi đã có kết quả khả quan. Những thầy cô giáo trường bạn trong lần thanh tra trường khi dự giờ lớp tôi cũng đã công nhận lớp học sôi nổi, nắm kiến thức vững chắc. Đó chính là động lực để tôi tiếp tục theo đổi ý tưởng của mình.
Với kết quả này, chắc chắn khi các em học lên các lớp trên, các em vẫn tiếp tục phát huy hơn nữa với những bài toán có lời văn yêu cầu ở mức độ cao hơn.
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
- Người giáo viên phải thực sự có lòng nhiệt tình, say mê với nghề nghiệp, với lương tâm trách nhiệm của người giáo viên.
- Trong quá trình giảng dạy phải luôn nắm bắt, đúc kết những vướng mắc, khó khăn thực tế ở lớp mình dạy, để từ đó nghiên cứu tìm ra hướng giải quyết tốt nhất.
- Mỗi biện pháp giáo dục của giáo viên phải được thực hiện đúng thời điểm, đúng nội dung ở từng bài học.
- Cần quan tâm, động viên, khuyến khích, giúp đỡ các em vượt qua mọi khó khăn để học tập tốt hơn.
- Phải cố gắng khắc phục các sai lầm của các em trong mỗi bài, mỗi phần, mỗi dạng toán, tránh để các sai lầm nhiều sẽ khó giải quyết.
- Điều rất quan trọng hơn nữa là sự mền mỏng, kiên trì uốn nắn học sinh của giáo viên trong mọi lúc của giờ học
- Trong từng tiết học, người giáo viên cũng cần tìm ra nhiều hình thức hoạt động học tập như: Làm việc chung với lớp, làm việc cá nhân, làm việc nhóm và tập trung chú ý tới cả ba đối tượng để giúp các em học tập tốt hơn.
* Nếu được thực hiện đồng bộ, đúng lúc, kịp thời biện pháp trên, tôi tin rằng chất lượng môn toán nói chung và phần giải toán có lời văn nói riêng của các em lớp 2 sẽ có kết quả nhất định và làm nền móng vững chắc để các em học tốt hơn ở các lớp sau.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của tập thể tổ 2 đã thực hiện. Trong quá trình thực hiện chuyên đề khó tránh khỏi sự thiếu sót rất mong BGH và quý thầy cô đóng góp ý kiến cho chuyên đề được hoàn chỉnh hơn.
 Thạnh Quới, ngày 2 tháng 2 năm 2012
 Người viết
 Nguyễn Văn Bồi

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_day_tot_cac_dang_bai_toan_co_loi_van_o_lop_2.doc